giới thiệu tác giả kim lân
Giới thiệu tác giả và tác phẩm; Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân. Thân bài: * Khái niệm về tình huống truyện. Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời.
Bộ sách Chế Lan Viên - Tác Phẩm Văn Học Được Giải Thưởng Hồ Chí Minh gồm: Quyển 2: Phần 2: Phê bình - Tiểu luận: Phê bình văn học; Suy nghĩ và bình luận; Nghĩ cạnh dòng thơ;.. Kim Thánh Thán Phê Bình Thơ Đường (NXB Tổng Hợp 1990) Quý tác giả không cho giới thiệu
Trong nghiên cứu này tác giả nhấn mạnh tới tỷ lệ rửa tay đúng kỹ thuật và coi đó là điều kiện tiên quyết cho an toàn thực hiện các kỹ thuật y tế. Sẽ thuyết phục hơn nếu nhóm tác giả tiến hành so sánh giữa hai nhóm can thiệp và chứng và xét nghiệm tìm vi khuẩn tồn tại trên tay của các nhóm đối tượng trên hai nhóm này.
Làm miêu khó [ Giới giải trí ] Thể loại: Nguyên sang , Đam mỹ , Hiện đại , HE , Tình cảm , Ngọt sủng , Giới giải trí , Song hướng yêu thầm , Chủ thụ , Sảng văn , Nhẹ nhàng , Kim bài đề cử 🥇 , 1v1. Thể loại truyện: Nguyên sang - thuần ái - cận đại hiện đại - tình yêu.
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và văn bản Chuyện người con gái Nam xươngHướng dẫn Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ Previous Post Em hãy giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Làng. Next Post Giới thiệu một tác phẩm
[ GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - BIÊN TẬP VIÊN - CỘNG TÁC VIÊN NGÒI BÚT NHỎ - TRÀ THƯ QUÁN NHIỆM KỲ 2022 ] "Viết lách chính là hội hoạ của phát ngôn." (L'écriture est la peinture de la voix.) - Voltaire - "Thi trung hữu họa", cái họa đó nó đại diện cho nhiều tầng nghĩa.
cingbesbupu1979.
7 Tháng Mười Một, 2021 Giới thiệu về truyện ngắn Làng và tác giả Kim Lân Mở bài Kim Lân là một nhà văn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông là truyện ngắn tiêu biểu của ông viết về đề tài này. Thân bài Giới thiệu về tác giả Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn, Bắc sinh năm 1920 và mất năm 2007.– Ông chỉ học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống do hoàn cảnh gia đình khó 1944, ông được giác ngộ cách mạng và tham gia Hội Văn hóa cứu hoạt động sáng tác, ông còn tham gia diễn kịch, đóng phim. Ông đặc biệt thành công trong vai lão Hạc với phim Làng Vũ Đại ngày bắt đầu sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám truyện ngắn đầu tay của ông được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, Trung Bắc chủ tác phẩm của ông chủ yêu viết về cuộc sông ở nông thôn và cảnh ngộ của những người nông tác phẩm chính + Vợ nhặt + Đứa con người vợ lẽ + Đứa con người cô đầu + Cô Via + Đôi chim thành… + Tập truyện ngắn Nên vợ nèn chồng 1955. + Tập truyện ngấn Con chó xấu xí 1962. Năm 2007, ông mất vì bệnh hen suyễn. Ông thọ 87 tuổi. Giới thiệu về đoạn trích làng. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiên chống Pháp và đăng lần đầu trôn tạp chí Văn nghệ năm 1948. Đoạn trích Làng trong sách giáo khoa đã lược bỏ phần đầu của tác phẩm phần giới thiệu về hoàn cảnh rời làng lên nơi tản cư của ông Ilai và cái tính thích khoe làng của ông.Làng là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản. Tác giả tập trung vào diễn tả tâm trạng của nhân vật chính – ông Hai. Câu chuyện nói về gia đình ông Hai rời làng đến ở nơi sơ tán. Khi đang ở nơi sơ tán ông nghe tin làng mình là việt gian, “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Ông như sống lại khi Chủ tịch làng lên nơi sơ tán cải chính lại tin đồn. Nhà bị đốt sạch ông không buồn mà chỉ biết vui vì làng mình không theo việt say sưa kể về chuyện làng ông đánh Tây. Về nội dung Truyện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong kháng chiến. Họ là những người có tình cảm nồng hậu, hài hòa. Họ cũng là những người có tình yêu làng quê, yêu cách mạng, yêu quê hương đất nước sâu sắc. Về nghệ thuật Ông thành công trong việc xây dựng tình huống và miêu tả tâm lí nhân vật diễn biên tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng mình làm việt gian cho đôn khi tin đồn được cải chính.Ông sử dụng ngôn ngữ trần thuật rất thành văn mộc mạc, giản dị. Giọng văn thủ thỉ, tâm tình dỗ đi vào lòng người đọc. Kết bài Truyện ngắn Làng nói chung, đoạn trích nói riêng đã rất thành công trong việc miêu tả một cách sâu sắc cuộc sống của người nông dân ở làng quê, ở nơi sơ đọc trân trọng những người nông dân thật thà chân chất mà có lòng yêu quê hương đất nước chân thành và sâu đoạn trích, em hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống càng biết yêu quý và trân trọng những người nông dân trong cuộc sông lao động hiện nay. Bài viết liên quan Thông tin tác giả
Nhà văn Kim Lân 1920 – 2008 tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ra và lớn lên tại Bắc Ninh. Ông là một trong những cây viết nổi bật nhất trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Điểm nổi bật trong những sáng tác của ông là chất dân dã và gần gũi với những người dân lao động, chất “quê” từ những mẫu chuyện mà ông đưa vào các tác phẩm của mình. Lối viết của nhà văn nhẹ nhàng, giàu tính tự sự, miêu tả chân thực về cuộc sống khổ cực, lầm than của những người nông nhưng trong hoàn cảnh đó, những nhân vật của ông vẫn sáng ngời lên những phẩm chất đáng trân trọng và ngợi ca; tiêu biểu như ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với lòng yêu nước, nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” với niềm khát khao về cuộc sống tốt đẹp và niềm tin vào ánh sáng của cách mạng. Kim Lân Sự nghiệp sáng tác của Kim Lân khá khiêm tốn nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng trong lòng công chúng. Điều này có lẽ xuất phát từ sự gần gũi của một nhà văn sinh ra từ đồng ruộng. Chính bởi sự am hiểu và gắn bó với làng quê nên những tác phẩm của ông phản ánh rất chân thực cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của những người dân quê. Trước năm 1945, nhà văn tập trung vào những nếp sống sinh hoạt, những trò chơi dân gian tao nhã của người dân thông qua một loạt tác phẩm Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn…Những trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, thả diều, chơi cờ… đã được thể hiện vô cùng sinh động qua ngòi bút của nhà văn. Sau năm 1945, đây có lẽ là giai đoạn thành công nhất của Kim Lân với những tác phẩm ghi được dấu ấn lớn. Vẫn trung thành với đề tài nông thôn, thế nhưng cách tiếp cận đi sâu vào tìm hiểu những ngóc ngách trong đời sống đã khiến cho những sáng tác giai đoạn này có giá trị rất lớn về nội dung và có tính giáo dục rất cao. Trong đó nổi bật nhất là truyện ngắn “Làng” năm 1948, “Vợ nhặt” in trong tập truyện “Con chó xấu xí” và tập truyện ngắn “Nên vợ nên chồng”. “Làng” Câu chuyện về lòng yêu nước của một lão nông ở tuổi xế chiều. Truyện ngắn này được nhà văn Kim Lân sáng tác vào năm 1948, kể về một nhân vật có tên là ông Hai. Ông Hai là một người nông dân vô cùng chất phát và hiền lành lại có tinh thần yêu nước rất lớn. Tuy đã tuổi cao nhưng ông vẫn hăng hái được tham gia vào cách mạng; ông muốn được góp sức mình cùng với những người làng Chợ Dầu chống lại kẻ thù. Từ ngày đi di tản ông vẫn đau đáu nhớ về cái làng của ông đó không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn gắn bó với ông cả cuộc đời mà còn là một vùng quê rất đáng tự hào với truyền thống cách mạng. Ông đi đâu cũng kể, cũng khoe về cái làng giàu truyền thống của mình “Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”. Khi ánh sáng cách mạng tới, làng ông cũng tham gia vào phong trào vô cùng sôi nổi. Ai cũng hăng hái được đóng góp vào sức mình vào cuộc chiến đấu “Ông khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối…Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì làm công trình không để đâu hết”. Rất rất nhiều câu chuyện mà ông kể về làng Chợ Dầu yêu dấu của mình, mỗi lần kể mắt ông lại sáng rực, tâm trạng lại vui vẻ hẳn ra. Có lẽ tình yêu quá lớn khiến ông Hai lúc nào cũng nhớ đến cồn cào và lo lắng về vùng quê đó. Nhưng một ngày có một sự kiến chấn động về cái làng của ông đã khiến cho ông Hai vô cùng đau khổ. Người ta đồn cái làng của ông đi theo giặc. Với một người yêu làng và yêu nước như ông Hải thì tin này đã khiến ông vô cùng đau khổ và giày vò. Ông khám dám tin và không thể tin vùng quê vốn yêu nước, yêu cụ Hồ như Chợ Dầu có thể làm ra cái việc phản bội Tổ Quốc như thế. Kể từ lúc nghe tin dữ đó, ông không còn dám đi ra khỏi nhà, ông thấy xấu hổ vì những lần khoe khoang về cái làng của mình. Thế nhưng có lẽ nút thắt trong lòng ông được tháo gỡ khi việc làng ông đi theo giặc chỉ là tin đồn mà thôi. Làng ông vẫn kiên cường chiến đấu quân giặc, vẫn trung thành với cụ Hồ, vẫn yêu nước. Bây giờ, ông lại có thể nhẹ nhõm và tự tin khoe về làng Chợ Dầu của mình như trước đây. Một chi tiết đắt giá nhất cho cả truyện ngắn này có lẽ là giây phút ông kể với hàng xóm về nhà của ông bị giặc đốt cháy rụi. Có lẽ tình yêu đất nước quá lớn khiến cho những người nông dân như ông Hai sẵn sàng hy sinh những lợi ích của bản thân. Ông thà để cho cái nhà bị Tây đốt nhẵn chứ không bao giợ chịu tiếng là Việt gian bán nước. Tấm lòng của những con người như ông Hai thật đáng để chúng ta trân trọng và ngợi ca. “Vợ nhặt” Khát vọng sống và mơ ước về hạnh phúc giản đơn của những người nông dân nghèo trong giai đoạn đen tối nhất của dân tộc. Nạn đói năm 1945 có lẽ là giai đoạn khủng khiếp nhất trong lịch sử của nước ta, khi có hơn 2 triệu đồng bào bị chết đói. Thời kỳ đó trên khắp các làng quê Việt Nam nơi đâu cũng ngổn ngang ven đường những cái xác người chết đói. Còn những người may mắn sống sót thì cũng gầy còm, xanh xao như tàu lá chuối. Trong không khí ảm đạm và tối tăm đó, đến cái ăn cũng không có thì sự việc anh Tràng dắt một cô gái đưa về làng khiến ai cũng hiếu kỳ. Người ta lo lắng cho anh khi lúc này đến thân anh cũng không biết có sống sót qua được nạn đói khủng khiếp này không nữa mà lại còn đèo bòng thêm một người vợ. Người có lẽ khổ tâm nhất là mẹ của Tràng. Đời bà đã quá khổ rồi, đến đời đứa con bà cũng lấy vợ trong lúc đói khổ nhất. Bà vui khi con bà tìm được vợ để yên bà gia thất nhưng bà cũng xót xa cho tương lai của đôi vợ chồng trẻ. Bà chỉ hy vọng họ vượt qua được cái nạn đói này, rồi tương lai như thế nào sẽ lo liệu sau. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” câu nói của bà như là lời an ủi động viên nhưng nghe sao mà chua xót. Cái hạnh phúc hết sức giản đơn về một mái ấm gia đình sao trong lúc này đây lại trở nên mong manh và buồn tủi quá. Bằng ngòi bút của mình, nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp. Câu chuyện về nhân vật Tràng “nhặt được vợ” có lẽ là một câu chuyện đặc biệt và hy hữu trong thời kỳ nhiên, ở đây nhà văn muốn nhấn mạnh khát khao về mái ấm gia đình bình dị, về tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong lúc khốn khó của người nông dân. Và đặc biệt là niềm tin vào cách mạng, chắc chắn cách mạng sẽ thành công và nhân dân ta sẽ không còn đói khổ như lúc này nữa. Một câu chuyện thực sự cảm động và ý nghĩa khép lại bằng một hình ảnh về lá cờ đỏ bay phấp phới. Ngoài những dấu ấn trong sư nghiệp văn chương với một loạt truyện ngắn thành công thì Kim Lân còn để lại ấn tượng trong lòng công chúng bằng những vai diễn để đời trong các bộ phim điện ảnh Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy, Lý Cựu trong phim Chị Dậu, Bủ vả trong phim Vợ chồng A Phủ… Tài năng của ông đã được khẳng đinh qua nét diễn vô cùng chân thật và gần gũi.
Tìm hiểu tác giả Hồ Chí Minh gồm các nội dung tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách văn học và đóng góp cho nền văn học 1. Tiểu sử – Hồ Chí Minh 19/05/1889 – 02/09/1969 tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. – Quê quán Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An. – Gia đình nhà Nho nghèo, cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan. – Quá trình hoạt động cách mạng + Năm 1911, ra đi tìm đường cứu nước. + Hoạt động cách mạng ở nhiều nước Pháp, Trung Quốc, Thái Lan… + Ngày 3-2-1930, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. + Năm 1941, trở về nước, lãnh đạo phong trào CM trong nước. + Tháng 8-1942, sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến tháng 9-1943. + Ra tù, Người trở về nước, lãnh đạo phong trào CM, tiến tới tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. + Ngày 2-9-1945, đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước VNDCCH, giữ chức vụ Chủ tịch nước. + Lãnh đạo nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. => Là vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới. 2. Sự nghiệp văn học a. Quan điểm sáng tác – Coi văn học là một vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. – Luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc. – Luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. b. Di sản văn học – Văn chính luận + Tác phẩm chính Bản án chế độ thực dân Pháp 1925, Tuyên ngôn độc lập 1945, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946, Không có gì quý hơn độc lập tự do 1966… – Truyện và kí + Tác phẩm chính Pari 1922, Lời than vãn của bà Trưng Trắc 1922, Con người biết mùi hun khói 1922, Vi hành 1923, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu 1925, Nhật kí chìm tàu 1931, Vừa đi đường vừa kể chuyện 1963… – Thơ ca + Tác phẩm chính Nhật kí trong tù viết trong thời gian bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch từ 1942-1943, chùm thơ viết ở Việt Bắc từ 1941-1945. => Di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách. c. Phong cách nghệ thuật – Thống nhất + Về mục đích sáng tác, quan điểm sáng tác, nguyên tắc sáng tác. + Về cách viết ngắn gọn. – Đa dạng + Văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến, kết hợp nhuần nhuyễn mạch luận lí với mạch cảm xúc, giọng điệu uyển chuyển. + Truyện và kí hiện đại, giàu tính chiến đấu, nghệ thuật trào phúng sắc bén, nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. + Thơ ca thơ tuyên truyền cách mạng mộc mạc, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc; thơ nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, cô đọng, súc tích.
giới thiệu tác giả kim lân